WEBINAR #1 XÃ HỘI HỌC NAM BỘ 2023
Bùi Thế Cường (Viện nghiên cứu Đông Nam Bộ, Trường Đại học Thủ Dầu Một)
Ngày 3/1/2023, Ban Công tác phía Nam Hội Xã hội học Việt Nam tổ chức hoạt động đầu tiên của WebinarSeries2023, tựa đề “Dân số, di cư và phát triển ở Nam Bộ”. Webinar có 45 tham dự viên từ các đơn vị nghiên cứu và đào tạo xã hội học, dân số học và công tác xã hội, làm việc ở Nam Bộ, Tây Nguyên, Trung Bộ và Hà Nội.
Người thuyết trình, PGS.TS. Lê Thanh Sang (Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ), mở đầu bằng việc tóm tắt kết quả phân tích dữ liệu dân số 1979-2019, cho thấy tốc độ tăng dân số ở Tây Nam Bộ rất thấp so với cả nước và so với Đông Nam Bộ, thậm chí dân số nông thôn đã âm kể từ 1999 đến nay. Trong khi đó, dân số Đông Nam Bộ tăng cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, cả ở nông thôn lẫn thành thị, dù tốc độ tăng ở thành thị cao hơn đáng kể so với ở nông thôn. Tăng nhanh lượng người di cư từ Tây Nam Bộ và các vùng khác đến Đông Nam Bộ, đạt đỉnh năm 2009 rồi giảm dần nhưng vẫn còn cao. Trong 30 năm, tỷ trọng người Tây Nam Bộ đến Đông Nam Bộ tăng từ khoảng 1/4 lên hơn một nửa
trong tổng số người di cư đến Đông Nam Bộ. Người di cư từ Trung Bộ đến Đông Nam Bộ cũng góp phần quan trọng nhưng vai trò ngày càng giảm so với Tây Nam Bộ. Khoảng 20 năm trở lại đây, tỷ trọng người di cư từ Đồng bằng sông Hồng đến Đông Nam Bộ giảm mạnh. Số người di cư từ vùng khác đến Tây Nam Bộ chỉ bằng 1/10 so với số người di cư khỏi vùng. Số người di cư đến Đông Nam Bộ từ Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung trước đây chiếm tỷ trọng khá cao nhưng đã giảm dần. Số người di cư từ Đông Nam Bộ đến Tây Nam Bộ và các vùng khác ít hơn rất nhiều so với từ Tây Nam Bộ và các vùng khác đến Đông Nam Bộ. Sau 30 năm, số người di cư từ Đông Nam Bộ đến Tây Nam Bộ tăng nhẹ, chỉ tăng 10 điểm phần trăm trong tổng số người di cư khỏi Đông Nam Bộ. Tỷ trọng đến Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và Tây Nguyên cũng chiếm tỷ lệ khá cao, và duy trì khá ổn định qua thời gian đối với Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Tỷ trọng đến Đồng bằng sông Hồng dù nhỏ nhưng xu hướng tăng. Các dòng di cư từ Đông Nam Bộ đến các vùng khác khá cân bằng và duy trì ổn định. Xuất cư khỏi Tây Nam Bộ khiến giảm áp lực cung lao động mà nền kinh tế vùng này không thể đáp ứng, góp phần bổ sung nguồn lực cho vùng từ các khoản tiền gửi. Đang diễn ra xu hướng di cư đến một số địa bàn của Tây Nam Bộ như Thành phố Cần Thơ, Long An, Tiền Giang.
Báo cáo viên nói đến bốn đặc điểm trong mối quan hệ giữa dân số, di cư và phát triển ở Nam Bộ. Thứ nhất, các quá trình dân số và di cư ở Nam Bộ chịu tác động trực tiếp và gián tiếp của các yếu tố phát triển và chính sách phát triển qua mỗi giai đoạn khác nhau. Chẳng hạn, một số chính sách áp dụng sau 1975 cho đến trước Đổi Mới, như kiểm soát tăng trưởng đô thị, chính sách xây dựng kinh tế mới và khai hoang phục hóa, chính sách mở rộng độc canh lúa ở Tây Nam Bộ. Tiếp theo là quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Đông Nam Bộ cũng như biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường ở Tây Nam Bộ. Thứ hai, tuy có những tác động tích cực, nhưng trên tổng thể, mức xuất cư cao khỏi Tây Nam Bộ phản ảnh sự yếu kém và bất lợi về kinh tế của vùng này trên nhiều phương diện. Thứ ba, biến động dân số và di cư đã dẫn đến nhiều vấn đề xã hội, như tăng bất bình đẳng, vị trí xã hội yếu thế và cuộc sống bấp bênh ở nhóm dân di cư, hệ thống đào tạo nghề và an sinh xã hội không đáp ứng thích hợp với nhu cầu. Thứ tư, dân số và tái phân bố dân cư theo lãnh thổ đang tương tác đa chiều rất phức tạp với những diễn biến môi trường mới, như nước biển dâng, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường.
Những kết quả nghiên cứu mới nhất của PGS.TS. Lê Thanh Sang chỉ ra một số xu hướng chính. Thứ nhất, tỷ suất di cư đến TPHCM đang giảm dần, đến các đô thị cấp hai đang tăng lên. Nó phản ảnh xu hướng đô thị hóa mang tính qui luật, từ đô thị trung tâm sang các đô thị cấp thấp hơn trong hệ thống đô thị vùng. Xu hướng này cũng phản ảnh tác động của các chính sách qui hoạch, đầu tư và phát triển, gắn với chuyên môn hóa chức năng đô thị vùng Nam Bộ. Các đô thị cấp hai trong vùng sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình tái phân bố dân số. Thứ hai, di cư từ Tây Nam Bộ đến Đông Nam Bộ có khuynh hướng giảm do qui mô dân số có tiềm năng di cư giảm và sự thu hút của một số trung tâm công nghiệp địa phương. Nhưng vẫn có một số yếu tố làm chậm quá trình đó khi cơ hội việc làm tại chỗ chưa đủ sức thay thế cho các trung tâm công nghiệp Đông Nam Bộ và do tác động bất lợi của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Thứ ba, với địa hình và giao thông thuận lợi, các trung tâm công nghiệp tiềm năng dọc hành lang TPHCM-Cần Thơ có thể trở thành những đô thị điểm đến của người dân từ những vùng thấp trũng, không an toàn ven biển Tây Nam Bộ khi diễn ra tác động mạnh hơn của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Thứ tư, quá trình phát triển đô thị ở các thành phố lớn cũng đang chuyển dịch từ trung tâm ra ngoại vi do mở rộng hạ tầng, đặc biệt là hệ thống đường bộ xuyên tâm và bao quanh. Ly tâm và đa trung tâm có thể trở thành xu hướng dịch chuyển dân số chính ở các đô thị lớn và trung bình trong thời gian tới.
Bài thuyết trình đề cập bốn nhóm chính sách. Thứ nhất, phát triển cơ sở hạ tầng để thúc đẩy liên kết vùng, tạo ra các trung tâm đô thị và công nghiệp cấp vùng và tiểu vùng. Hành lang TPHCM-Cần Thơ là địa bàn phù hợp để đầu tư phát triển kinh tế kết hợp với tái bố trí dân cư ở Tây Nam Bộ. Thứ hai, qui hoạch phát triển đô thị thích ứng với biến đổi khí hâu, chú trọng hai thành phố lớn nhất vùng là TPHCM và Cần Thơ. Thứ ba, nâng cao năng lực đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp thân thiện với môi trường, tăng chất lượng nông sản và hàm lượng chế biến, đặc biệt là nâng cao tỷ trọng sản phẩm nước lợ và nước mặn còn nhiều tiềm năng canh tác theo hướng thuận thiên để tăng việc làm và thu nhập từ nông nghiệp. Thứ tư, xây dựng chính sách an sinh xã hội thích ứng với bối cảnh già hóa dân số và biến đổi khí hâu, đặc biệt hướng đến các nhóm yếu thế ở nông thôn, nhóm di cư, và lao động phi chính thức. Chú trọng sức khỏe lão khoa, hệ thống y tế công ở nông thôn và quản lý sức khỏe, tổ chức đời sống của người cao tuổi ở nông thôn vì phần lớn họ là người nghèo, không thể dựa nhiều vào lưới an sinh xã hội truyền thống, và phụ thuộc vào chính sách an sinh xã hội của nhà nước.
Sau phần thuyết trình, webinar dành thời gian thảo luận. Nhiều tham dự viên nhận thấy bài thuyết trình đã phác họa một toàn cảnh về động năng dân số và phát triển ở Nam Bộ trong vài thập niên qua, dự đoán một số xu hướng biến đổi sắp tới, đề xuất các nhóm giải pháp ưu tiên. Bài thuyết trình đã gợi ý nhiều hướng nghiên cứu cụ thể hơn cho nghiên cứu xã hội ở Nam Bộ thời gian tới.