Tái cấu trúc lao động – nghề nghiệp và sự xuất hiện các gia đình trung lưu ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay (trường hợp xã Hải Vân, huyện Hải hậu, Nam Định)
Trịnh Duy Luân*
Tóm tắt:
Bài viết chỉ ra những thay đổi trong cấu trúc lao động – nghề nghiệp của xã Hải Vân trong 4 thập niên gần đây – như là một nghiên cứu trường hợp đối với một xã ở đồng bằng sông Hồng. Bài viết nhấn mạnh đến những đặc điểm của các yếu tố nguồn lực con người, vốn xã hội và tinh thần khởi nghiệp ở địa phương trong bối cảnh CNH, HĐH – những yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển của Hải Vân.
Từ đây, do kết quả của việc nâng cao mức sống, đã xuất hiện nhiều gia đình trung lưu nông thôn, trước hết xét theo thu nhập, và cao hơn, khi tính tới các chiều cạnh nghề nghiệp và học vấn. Ngoài ra, trong các GĐTL mới nổi này, các quan hệ gia đình cũng có những biểu hiện mới như bình đẳng hơn giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái như một biểu hiện của biến đổi xã hội ở nông thôn ĐBSH hiện nay.
Từ khóa: cấu trúc lao động- nghề nghiệp; mức sống, gia đình trung lưu, nông thôn ĐBSH, xã Hải Vân.
Ảnh sưu tầm
Mở đầu
Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, và chương trình “Xây dựng nông thôn mới” những năm gần đây đã và đang tiếp tục tác động, làm thay đổi đáng kể cấu trúc kinh tế, lao động nghề nghiệp trong các gia đình nông thôn, theo hướng hỗn hợp và phi nông. Tại nhiều địa phương, cùng với những chuyển biến trong cấu trúc lao động nghề nghiệp, mức sống của người dân dần được nâng cao. Từ đây một bộ phận các HGĐ nông thôn đã có thu nhập khá để có thể được xếp vào nhóm các “gia đình trung lưu nông thôn” về kinh tế. Trên cơ sở những nghiên cứu đã có về một xã nông thôn đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) – xã Hải Vân (huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định), và khảo sát gần đây nhất (tháng 1/2017) của đề tài “Gia đình trung lưu Việt Nam”, bài viết sẽ chỉ ra một số đặc điểm trong cơ cấu xã hội nghề nghiệp, lao động và sự xuất hiện những gia đình trung lưu nông thôn (về kinh tế, mức sống) ở xã Hải Vân trong thập niên vừa qua như một nghiên cứu trường hợp cho nông thôn ĐBSH.
Xã Hải Vân được giới nghiên cứu xã hội học biết đến đầu tiên từ công trình của F. Houtart và L. Geneviève “Xã hội học về một xã ở Việt Nam: Tham gia xã hội, các mô hình văn hóa, gia đình, tôn giáo ở xã Hải Vân“. Qua trường hợp Hải Vân, các tác giả đã phân tích thực trạng và những chuyển biến của nông thôn ĐBSH thời kỳ 1970 – 1980, với mô hình hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cùng những mô hình tổ chức kinh tế – xã hội và văn hóa ở nông thôn Việt Nam thời kỳ này. Hai mươi năm sau, với công trình “Hải Vân – Chủ nghĩa xã hội và Thị trường – Bước quá độ kép của một xã Việt Nam”, F. Houtart lại cho thấy những bước chuyển đổi mới về kinh tế – xã hội – văn hóa của Hải Vân dưới tác động của đường lối “Đổi mới”, khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường.
Nghiên cứu tiếp tục trường hợp xã Hải Vân sẽ giúp bổ sung thêm cho “hồ sơ lịch đại” về những chuyển đổi về kinh tế – văn hóa – xã hội của Hải Vân qua gần 40 năm phát triển. Bài viết này hy vọng sẽ kích thích những kiến cứu tiếp theo về Hải Vân trong thười gian tới.
- Hải Vân: cấu trúc kinh tế hỗn hợp “nông – phi nông” của những năm 1980
Trong công trình “Hải Vân – một xã của Việt Nam….”, F. Houtart đã mô tả Hải Vân trong khuôn khổ của mô hình hợp tác xã (HTX) nông nghiệp (bậc thấp, rồi hợp nhất thành HTX bậc cao) vào cuối những năm 1970. Vào thời kỳ đó, Hải Vân vốn không phải là xã “thuần nông”, mà đã có một cấu trúc kinh tế hỗn hợp nông nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (TCN).
Cũng như nhiều xã nông thôn ĐBSH, Hải Vân có khá ít ruộng đất. Vào năm 1978 xã có 460,26 ha đất trồng trọt với tổng số 5.179 nhân khẩu, bình quân ruộng đất là 888 m2/ người, tương đương khoảng 2,5 sào Bắc bộ (F. Houtart. Sđd., tr. 65,72). Có lẽ vì thế mà vào thời gian này, lao động nông nghiệp (bao gồm trồng trọt và chăn nuôi) của Hải Vân chỉ chiếm 31,6%; lao động làm tiểu TCN chiếm tới hơn 56,8% với khoảng gần một chục ngành nghề đa dạng (xem 2 Bảng dưới đây, trích lại từ F. Houtart, Sđd.)
Bảng 1: Cơ cấu lao động của Hải Vân năm 1978
Các ngành sản xuất | Số lao động | Tỷ lệ % |
Trổng trọt | 727 | 25,7 |
Chăn nuôi | 168 | 5,9 |
Tiểu, thủ công nghiệp | 1607 | 56,8 |
Thủy lợi | 187 | 6,6 |
Dịch vụ tập thể | 65 | 2,3 |
Quản lý | 73 | 2,6 |
Bảng 2: Cơ cấu lao động trong các ngành nghề TCN và dịch vụ năm 1978
Ngành nghề TTCN | Số lao động | Tỷ lệ % |
Làm gạch | 815 | 50,7 |
Mộc xây dựng | 148 | 9,2 |
Cơ khí | 58 | 3,6 |
Chiếu cói | 162 | 10,7 |
Thêu ren | 154 | 10,2 |
Đan lát | 6 | 0,4 |
May, cắt tóc | 13 | 0,8 |
Vận tải | 60 | 3,7 |
Khai thác lâm sản | 91 | 5,7 |
Nguồn: F. Houtart và L. Geneviève. Xã hội học về một xã của Việt Nam. Tham gia xã hội, Các mô hình Văn hóa, Gia đình, Tôn giáo ở xã Hải vân. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội. 2001. Tr. 69.
Như vậy, Hải Vân đã có truyền thống làm kinh tế năng động và đa dạng từ thời kỳ trước Đổi mới. Truyền thống này vẫn được tiếp tục duy trì cho đến ngày nay, với những biến thể mới.
- Cấu trúc lao động, ngành nghề hiện nay của Hải Vân
Theo số liệu thống kê của UBND xã, đến năm 2016, diện tích đất canh tác bình quân đầu người của Hải Vân chỉ còn 231m2, tức là khoảng 0,64 sào Bắc bộ (bằng 1/4 so với 2,5 sào năm 1978). Điều này vừa là kết quả, vừa là tác nhân của quá trình phát triển các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp của xã trong bối cảnh Đổi mới, CNH, HĐH, hội nhập và mở cửa.
Cũng theo số liệu do UBND xã cung cấp, cơ cấu tỷ trọng giá trị 3 nhóm ngành kinh tế của Hải Vân năm 2016 là như sau. (Để tiện so sánh, tôi đưa thêm vào cột số liệu năm 1978 đã nêu ở trên, sau khi đã được nhóm gộp lại).
Bảng 3: Cơ cấu 3 nhóm ngành kinh tế của Hải Vân 1978 và 2016
Các ngành sản xuất | 1978 (%) | 2016 (%) | |
Lao động | Lao động | Giá trị | |
Trổng trọt – chăn nuôi | 31,7 | 37,0 | 27,5 |
Công nghiệp và Xây dựng | 56,8 | 33,2 | 42,0 |
Dịch vụ | 11,5 | 29,8 | 30,5 |
Số liệu 1978: theo F. Houtart. Sđd.; Số liệu 2016: UNBND xã Hải Vân.
Có sự thay đổi nhất định trong tỷ trọng các thành phần, nhưng về cơ bản Hải Vân vẫn duy trì được cơ cấu hỗn hợp nông – phi nông. Còn hướng thay đổi, xét về giá trị, là tiếp tục giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng khu vực công nghiệp, xây dựng, và đặc biệt, là tăng nhanh khu vực dịch vụ – xu hướng điển hình của quá trình phát triển theo hướng đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nghề ở nông thôn hiện nay.
Cái mới của Hải Vân ngày hôm nay là công nghiệp, TCN đang phát triển chủ yếu theo mô hình doanh nghiệp quy mô hộ gia đình (HGĐ), với trang thiết bị mới, làm ăn theo cơ chế thị trường, mở rộng giao lưu, cung cấp hàng hóa sản phẩm của mình ra tới các huyện khác, tỉnh khác, và cả nước ngoài (như với nghề mộc và nghề cơ khí). Theo xu hướng này, kết quả khảo sát do chúng tôi thực hiện vào tháng 1/2017 đã cho thấy cơ cấu 3 nhóm hộ gia đình theo nghề nghiệp ở Hải Vân là như sau:
Bảng 4: Ba nhóm HGĐ theo nghề nghiệp ở Hải Vân (tháng 1/2017)
Các nhóm HGĐ | Số hộ | Tỷ lệ (%) |
Thuần nông | 7 | 6,5 |
Phi nông | 70 | 64,8 |
Hỗn hợp nông – phi nông | 31 | 28,7 |
Tổng số | 108 | 100 |
Về “lượng”, đây là những con số về cấu trúc lao động- nghề nghiệp trong HGĐ. Song quan trọng hơn phải kể đến cả là cái “chất” – yếu tố con người lao động của Hải Vân, từ trước đến nay. Một chủ doanh nghiệp cơ khí có tên tuổi ở Hải Vân hiện nay đã nhận xét: “Người dân Hải Vân cũng rất tinh ý và khôn, thấy có thị trường rộng mở họ sẵn sàng đầu tư làm ngay” (PVS anh MVC, 1/2016). Đây có lẽ là nhân tố quan trọng nhất góp phần làm nên Hải Vân ngày hôm nay.
Nghề nông (trồng trọt, chăn nuôi, bao gồm cả nuôi thủy sản) ở Hải Vân vẫn còn một tỷ lệ nhất định. Theo số liệu thống kê của xã năm 2016, tỷ lệ các HGĐ hiện còn làm nông (thuần nông và hỗn hợp) chiếm 37%, còn theo điều tra của chúng tôi tỷ lệ này là 35,2%. Trong đó số hộ “thuần nông” còn rất ít – chỉ 6,5%. Nhìn chung, các hộ còn làm nông chỉ coi đó như một thứ “nghề phụ”, cốt để lấy gạo ăn. Các công đoạn sản xuất nông nghiệp đều được chuyên môn hóa, cơ giới hoá và phần lớn đều thuê dân từ xã khác đến làm. Vì theo lời một cán bộ xã thì “dân Hải Vân không làm thuê nông nghiệp, mà làm thuê cho nghề phi nông nghiệp nhiều hơn”. Lý do nằm ở hiệu quả, thu nhập của công việc. Lao động sản xuất nông nghiệp chủ yếu do những người có tuổi, bố mẹ già ở nhà, khi con cái họ, hoặc thoát ly làm việc ở thành phố, hoặc làm công nhân, lao động tự do, làm thuê ngay tại xã (với thu nhập không hề thấp). Nếu là lao động trung niên, còn sức lao động thì họ thường phải kết hợp làm nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) với buôn bán, dịch vụ tại chỗ. Ruộng đất đã ít, lại được cơ giới hóa, chuyên môn hóa, nên không cần nhiều lao động.
Đất canh tác bị thu hẹp, nhưng thay vào đó giá trị của đất ngày một tăng cao do quá trình đô thị hóa. Một lô đất 80 m2 ở Hải Vân (dọc quốc lộ 21) gần đây được đấu giá lên tới 1,4 tỷ đồng (gần 20 triệu đồng / m2). Các ngành nghề như mộc, cơ khí đều rất cần đất để mở rộng mặt bằng, phát triển sản xuất. Xã cũng cần đất để quy hoạch, thành lập cụm công nghiệp, tách sản xuất công nghiệp ra khỏi khu dân cư, tránh ô nhiễm môi trường sống. Nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp là rất lớn. Song, theo ý kiến cán bộ xã thì cơ chế, thủ tục chuyển đổi này còn rất phức tạp, chưa có người đứng ra tổ chức hay “phá rào” để khai thông hướng phát triển này….
Ngành nghề phi nông nghiệp mới
Như trên đã nói, Hải Vân có nhiều ngành nghề tiểu TCN từ những năm 1980. Cùng với thời gian, một số ngành nghề mất đi (như làm gạch, dệt chiếu cói, thêu ren,…). Một số nghề khác vấn tồn tại và phát triển đến nay, như nghề mộc xây dựng và dân dụng, nghề xây dựng. Đồng thời xuất hiện thêm những nghề mới, do sự năng động, tìm tòi và đầu tư của người dân Hải Vân. Điển hình là nghề đúc hợp kim nhôm với sản phẩm là các loại cổng và hàng rào. Sản phẩm này do có nhiều yếu tố mỹ thuật, thường được sử dụng cho các công trình xây dựng lớn, giúp làm tôn thêm giá trị, vẻ bề thế của các ngôi nhà lớn, các biệt thự, công sở,… có khuôn viên rộng.
Dù mới được phát triển trong 4-5 năm gần đây, nghề này đã thu hút nhiều người dân đầu tư. Tại Hải Vân hiện có hơn 30 doanh nghiệp theo nghề này đang hoạt động. Quy mô doanh nghiệp ở mức nhỏ và vừa, chủ yếu trên nền tảng kinh tế HGĐ. Lao động chủ yếu là người trong gia đình, anh em họ hàng gần. Có doanh nghiệp thuê thêm trên dưới 10 lao động khác ở trong xã hoặc các xã kề bên. Lớn nhất, như doanh nghiệp gia đình anh M.V. Ch., thuê tới 50 lao động thường xuyên, trong đó khoảng 15 lao động ở các xã khác. Sản phẩm làm ra cung cấp cho thị trường các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, còn xuất khẩu sang cả sang Đài Loan.
Ngoài ra, Hải Vân còn có nghề chế biến gỗ (mộc xây dựng và dân dụng) từ trước, nay phát triển thành các doanh nghiệp có máy móc, trang thiết bị hiện đại và nhập gỗ từ Lào, Nam Phi về chế biến. Hiện Hải Vân có 34 cơ sở chế biến gỗ (mộc dân dụng) như vậy. Có doanh nghiệp kinh doanh quy mô khá lớn. Theo lời một cán bộ xã, vào thời điểm tháng 1/2017, có doanh nghiệp gỗ đang bị “tắc” tới 400 khối gỗ lim từ Lào (trị giá khoàng 16 tỷ đồng), do phía Lào có chính sách mới, đóng cửa biên giới với sản phẩm gỗ.
Theo báo cáo của UBND xã, các doanh nghiệp chế biến gỗ và cơ khí này đã tạo việc làm cho khoảng 1.000 lao động (chiếm khoảng 15% tổng số lao động của xã). Ngoài ra, còn có nghề xây dựng, làm việc tại xã hoặc đi các địa phương khác, cùng hàng trăm lao động đi làm ở các xưởng may mặc và các cơ sở khác trong huyện.
Tiền công lao động giản đơn ở trong xã khoảng 200 – 250 ngàn đồng / ngày. Thu nhập của thợ làm việc trong các doanh nghiệp đúc hợp kim nhôm có thể từ 4-5 triệu đồng /tháng, nếu làm thêm giờ có thể cao hơn. Thợ có kỹ thuật (làm mộc, làm cơ khí) có thể thu nhập trên dưới 10 triệu/ tháng.
Tình hình này đã có những tác động tích cực tới xu hướng việc làm và di động của lao động trẻ tại địa phương. Lớp trẻ ít đi di cư tìm việc làm ở nơi khác hơn vì nhu cầu việc làm, từ lao động giản đơn tới lao động có kỹ năng ở xã khá cao, thu nhập cũng không quá thấp, lại được làm việc tại quê nhà. Một cán bộ xã nhận xét: “Mấy năm gần đây, thanh niên ở xã ít đi học lên hơn, chỉ muốn đi làm, làm giàu. Thậm chí 50% tốt nghiệp THCS không học THPH mà chuyển sang học nghề và làm việc tại địa phương. Có cả sinh viên tốt nghiệp một số ngành học không tìm được việc làm ở thành phố cũng quay về làm việc, hoặc lập nghiệp tại địa phương” (PVS Bí thư Đảng ủy xã).
Tinh thần khởi nghiệp
Bài học về phát huy tính chủ động sáng tạo, cần cù học hỏi của người dân, người lao động Hải Vân là nhân tố quan trọng hàng đầu trong khởi nghiệp. Câu chuyện khởi nghiệp thành công với nghề đúc hợp kim nhôm của các chủ doanh nghiệp HGĐ như MV Ch., NV T. là ví dụ điển hình.
Họ thường có trình độ học vấn không cao, nhiều khi chưa tốt nghiệp PTTH (lớp 9, thậm chí chỉ lớp 7). Ngay từ ngày còn học phố thông, họ đã tự học cho mình một nghề thủ công nào đó. Thôi học, họ bắt đầu đi làm ăn xa (vào thành phố Hồ Chí Minh). Ở đó, qua lăn lộn với thực tế làm ăn, chuyển đổi nghề nghiệp họ đã học được nghề, tìm hiểu các cơ hội và trở về Hải Vân bắt đầu khởi nghiệp từ vốn liếng ít ỏi. Họ cũng mày mò tự học từ sách kỹ thuật, nhất là từ internet, cùng với kinh nghiệm thực tế (có người 5-6 năm, có người hàng chục năm) trước khi bắt đầu phát triển doanh nghiệp của mình. Họ cũng đã học được cách quản lý, biết tính toán, mua máy móc cũ, hoặc mua phụ tùng về tự lắp ráp máy, tìm tòi các phương án kinh doanh, giảm chi phí,…
Vốn xã hội, mạng lưới xã hội cũng được các doanh nghiệp trẻ Hải Vân vận dụng trong bước đầu khởi nghiệp. Trong nghề đúc hợp kim nhôm, các chủ doanh nghiệp cho biết, việc khởi nghiệp thành công thường đi kèm với sự hỗ trợ lẫn nhau trong gia đình, giữa các anh chị em trong lúc khó khăn ban đầu (vốn, đất làm nhà xưởng). Sau đấy, khi doanh nghiệp đã vững vàng, họ lại tạo điều kiện cho nhau phát triển đi lên, tách ra lập doanh nghiệp mới, mở rộng sản xuất. Khi được hỏi về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, những người chủ doanh nghiệp trẻ của Hải Vân luôn khẳng định: “mục đích ban đầu là tạo việc làm cho anh chị em trong gia đình, trong làng xóm là chính…”. Rõ ràng tính thần và ý chí khởi nghiệp, những phẩm chất tích cực của người dân Hải Vân đã được kết hợp tốt với mạng lưới xã hội, vốn xã hội truyền thống nơi đây.
Các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống được phát triển:
Mức sống tăng, nhiều nhu cầu về dịch vụ cho sản xuất và đời sống đã kích thích sự xuất hiện các cửa hàng kinh doanh và dịch vụ đủ loại. Từ đây, ở khu vực trung tâm của xã đã xuất hiện mô hình cư trú theo tuyến phố, kết hợp nhà ở với cửa hàng (shop-house) kiểu đô thị. Tuyến phố này được hình thành ở xóm 8, dài khoảng 400m, nối từ trụ sở UBND xã tới chợ Trung Thành (chợ Hải Vân), bao quanh nhà thờ Trung Thành. Đường được rải nhựa, rộng rãi, có điện đường chiếu sáng, với nhiều biển hiệu, quảng cáo và hàng hoá dịch vụ sôi động đã làm thay đổi bộ mặt của Hải Vân đang được đô thị hóa, với nhiều tiềm năng phát triển.
Trên “tuyến phố” này, có thể bắt gặp các cửa hàng tạp hóa, dịch vụ cưới hỏi, fashion, đồ nội thất, hàng điện tử, điện lạnh, cửa hàng vàng bạc, dịch vụ trang điểm, làm đẹp (làm tóc, làm móng), trang bị âm thanh, và nhiều loại mặt hàng gia dụng đa dạng khác. Lợi thế “nhà mặt đường” đã được người dân nhắc tới cùng với giá trị nhà – đất tăng cao và nhanh ở khu vực này. Tất cả đều biểu hiện sự phát triển điển hình theo hướng đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng ở một xã nông thôn như Hải Vân.
- Mức sống tăng cao và sự xuất hiện các gia đình trung lưu ở Hải Vân
Thu nhập bình quân
Theo báo cáo của UBND xã, thu nhập bình quân đầu người của Hải Vân năm 2016 khoảng 35,5 triệu đồng/ năm (gần 3 triệu đồng/ người/ tháng).
Còn theo số liệu điều tra 1/2017 của chúng tôi, trong số 108 hộ gia đình được phỏng vấn, thu nhập bình quân đầu người của các HGĐ đạt tới mức 4,83 triệu đồng/ tháng, giá trị trung vị (Median) là 3,75 triệu. Khoảng 60% số HGĐ được phỏng vấn có thu nhập bình quân đầu người từ 3,3 triệu đồng trở lên. (Mức thu nhập này là cao hơn nhiều so với thu nhập của các hộ gia đình được điều tra cùng thời gian ở phường Trần Tế Xương, một phường ven đô của thành phố Nam Định).
Cũng theo kết quả điều tra này, nếu chọn mức thu nhập bình quân đầu người từ 2,6 triệu đồng/ tháng trở lên là thuộc GĐTL thì gần 3/4 các HGĐ ở Hải Vân được chúng tôi phỏng vấn đã có thể được xếp vào nhóm “gia đình trung lưu” ở nông thôn*.
Bảng 5: Các nhóm HGĐ được khảo sat ở Hải Vân theo thu nhập
Mức thu nhập bình quân đầu người / tháng | Số HGĐ | % |
|
28 | 25,9 |
|
19 | 17,6 |
|
23 | 21,3 |
|
38 | 35,2 |
Tổng | 108 | 100,0 |
Điểm khác so với các gia đình trung lưu đô thị là ở trình độ học vấn của các thành viên trong độ tuổi lao động của các HGĐ ở Hải Vân khá thấp. Với nhóm GĐTL, 57,5% chủ hộ có học vấn THCS, 16,3% có học vấn THPT, 18,8% có trình độ từ trung cấp nghề/ cao đẳng trở lên. Thậm chí còn có 7,1% chủ hộ chỉ có trình độ Tiểu học. Điều này cũng đúng cả với nhóm các hộ gia đình kinh doanh, sản xuất công nghiệp (mộc, cơ khí) khá giả ở xã, như đã mô tả ở trên.
Tiện nghi sinh hoạt
Báo cáo của UBND xã cho biết, hiện nay, 100 % số hộ trong xã đã có nhà kiên cố, trong đó 50% là nhà cao tầng. Toàn xã có gần 3.000 xe máy (bình quân 1 xe máy / hộ); hơn 100 ô tô các loại (3,4 chiếc / 100 hộ), và 4 trạm tiếp sóng viễn thông. Các số liệu này khá tương đồng với kết quả phỏng vấn HGĐ của chúng tôi vào tháng 01/2017 vừa nói trên.
Bảng 6: Các tiện nghi sinh hoạt trong gia đình ở Hải Vân (khảo sát tháng 01/2017)
Loại tiện nghi | Tỷ lệ % có | Loại tiện nghi | Tỷ lệ % có | ||
Toàn mẫu | GĐTL | Toàn mẫu | GĐTL | ||
|
5,6 | 6,2 | 11. Wi-fi trong nhà | 48,9 | 41,2 |
|
93,3 | 80,0 | 12. Máy vi tính để bàn / laptop | 35,2 | 39,8 |
|
41,2 | 53,8 | 13. Điện thoại DĐ thường (không kết nối internet) | 75,9 | 72,5 |
|
95,4 | 97,5 | 14. Điện thoại DĐ, ipad có kết nối internet | 62,0 | 70,0 |
|
80,6 | 85,0 |
|
57,4 | 58,8 |
|
47,2 | 53,8 |
|
57,4 | 61,2 |
|
90,7 | 95,0 |
|
32,4 | 38,8 |
|
31,5 | 40,0 | 18. Đàn Piano (giá >20 triệu) | 4,6 | 6,2 |
|
97,2 | 97,5 | 19. Ô tô kinh doanh (xe tải, xe khách) | 4,6 | 5,0 |
|
13,0 | 16,2 | 20. Khác (ghi rõ)……. | 2,8 | 2, |
Ghi chú: Có một số tiện nghi được các gia đình sở hữu với số lượng nhiều như: điện thoại di động (có gia đình có tới 5-6 chiếc), xe máy: 2-3 chiếc; TV, máy vi tính, điều hòa nhiệt độ
Quả thực, nhìn vào mức độ trang bị tiện nghi sinh hoạt của các HGĐ trên đây, ai cũng có thể nghĩ đây là điều kiện sống của dân cư ở một đô thị lớn, chứ không phải của một xã nông thôn như Hải Vân. Mức độ tiện nghi này còn ấn tượng hơn với nhóm GĐTL (cột xanh thẫm trong bảng) như chúng tôi đã xác định ở trên.
Về nghề nghiệp, nếu sử dụng thêm một chỉ báo “có ít nhất 1 người làm lao động giản đơn” (theo số liệu điều tra, chiếm 35% các HGĐ), thì tỷ các GĐTL (theo 2 chiều TN và nghề nghiệp) ở Hải Vân lúc này, sẽ chỉ còn 50% (thay vì 75% xét đơn chiều, chỉ theo TN). Và sau cùng, nếu đưa thêm vào chiều học vấn, với chỉ báo “học vấn của NTL từ PTTH trở lên” thì tỷ lệ GĐTL (theo 3 chiều: thu nhập, nghề nghiệp và học vấn) của Hải Vân lúc này chỉ còn 35%.
Nhà ở
Về nhà ở cũng vậy, giống như số liệu thổng kê của xã, điều tra của chúng tôi cho biết: 100% người dân trong xã có nhà riêng, xây kiên cố, trong đó, 43,5% là nhà xây nhiều tầng. Bình quân diện tích nhà ở là 43,7 m2/ người. Diện tích đất ở là trên 70 m2/ người, khi tính theo đất khuôn viên.
Nhiều nhà được xây dựng với kiến trúc cầu kỳ, khuôn viên rộng, có cổng, hàng rào làm từ hợp kim nhôm – sản phẩm mới của địa phương. Có vẻ như gia chủ vừa làm đẹp nhà, vừa muốn quảng cáo sản phẩm mới này của Hải Vân gần đây.
Những mô hình lối sống mới của các “gia đình trung lưu”
Khá lý thú là đi kèm với sự “trung lưu hóa” mức sống của nhiều gia đình, chúng tôi cũng quan sát thấy nhiều chỉ báo của sự tiến bộ theo hướng hiện đại trong lối sống của nhóm các “gia đình trung lưu” này. Điển hình là những chỉ báo về quan hệ gia đình. Có thể nhận thấy quan hệ giới (giữa vợ và chồng), và quan hệ giữa 2 thế hệ (cha mẹ và con cái) trong các gia đình này đang trở nên bình đẳng hơn (ít nhất là so với với các gia đình chưa đạt mức sống trung lưu)
Chẳng hạn, trong các GĐTL, tỷ lệ cả vợ và chồng cùng là người đảm nhận chính các công việc trong gia đình, cao hơn hẳn so với tỷ lệ này ở nhóm gia đình ‘dưới TL”
Bảng 7: Tỷ lệ cả vợ và chồng là người làm chính các công việc (so sánh GĐTL với GĐ dưới TL)
Loại công việc | Cả 2 VC cùng làm | |
GĐTL | GĐ dưới TL | |
|
11,4 | 7,7 |
2. Các công việc nội trợ (đi chợ, nấu ăn, giặt rũ, lau dọn nhà…) | 6,3 | 0 |
3. Chăm sóc con nhỏ | 17,5 | 31,3 |
4. Chăm sóc ông bà / bố mẹ già | 65,4 | 37,5 |
5. Kèm cặp/ dạy con học thêm | 40,7 | 16,7 |
6. Tạo thu nhập cho gia đình | 49,4 | 48,0 |
7. Quản lý thu chi ngân sách gia đình | 24,1 | 15,4 |
Cũng như vậy, trong các GĐTL, mô thức cả 2 vợ chồng cùng quyết định những công việc của gia đình – từ sản xuất kinh doanh, nội trợ, đến đối nội đối ngoại, đều có tỷ lệ cao hơn tỷ lệ này ở các gia đình “dưới TL”.
Bảng 8: Tỷ lệ cả vợ và chồng cùng quyết định các công việc (so sánh GĐTL với GĐ dưới TL)
Những công việc | Vợ chồng cùng quyết định (%) | |
GĐTL | GĐ dưới TL | |
|
21,9 | 18,2 |
|
51,3 | 36,0 |
|
56,4 | 52,9 |
4. Chọn trường/ lớp học cho con đi học | 58,8 | 58,3 |
|
72,7 | 50,0 |
|
81,6 | 57,2 |
7. Tham gia các hoạt động xã hội (đóng góp, từ thiện, làm cán bộ ở cơ sở, …) | 61,5 | 57,7 |
Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, việc con cái được cùng cha mẹ ra những quyết định có liên quan đến chúng là chỉ báo cho thấy những chuyển biến trong quan niệm của các bậc cha mẹ hiện nay. Trước đây, trong các gia đình nông thôn “truyền thống”, gia trưởng, trẻ em, kể cả vị thành niên phải răm rắp nghe lời cha mẹ mới được xem là “ngoan”. Theo xu hướng hiện đại, như trong nhiều GĐTL ở đô thị, con cái được quyền tham gia vào nhiều công việc, nhiều quyết định liên quan đến chúng như học hành, vui chơi, kết bạn, hay định hướng nghề nghiệp. Ở Hải Vân hiện nay, trong các gia đình trung lưu về kinh tế, đã xuất hiện xu hướng này (so với các gia đình “dưới TL”). Rõ nhất là trong nhóm vị thành niên (11-17 tuổi), gần một nửa các em được tham gia cũng cha mẹ trong các quyết định liên quan đến kết bạn, tình yêu hôn nhân, vui chơi giải trí và định hướng nghề nghiệp của chúng. Trong khi ở các gia đình “dưới TL”, tỷ lệ này chỉ vào khoảng 10-20%. (xem Bảng 9).
Bảng 9: Tỷ lệ các con chưa trưởng thành được cùng cha mẹ tham gia vào các quyết định có liên quan đến chúng (so sánh GĐTL với GĐ dưới TL)
Các hoạt động / công việc của con cái | BM và CC cùng bàn và quyết định | |
GĐTL | GĐ dưới TL | |
|
39,5 | 33,3 |
|
44,4 | 25,0 |
|
50,0 | 14,3 |
|
44,4 | 15,8 |
|
42,5 | 5,0 |
|
25,0 | 35,7 |
|
38,2 | 25,0 |
|
16,7 | 5,0 |
|
27,5 | 30,0 |
Trên đây chỉ là một phác thảo sơ bộ về sự xuất hiện và một vài đặc điểm của các gia đình trung lưu nông thôn “mới nổi” ở Hải Vân như một ví dụ ban đầu về xu hướng trung lưu hóa trong bối cảnh phát triển nông thôn theo hướng CNH, HĐH và xây dựng nông thôn mới.
Trong những bài viết sau, những số liệu khảo sát ở quy mô lớn hơn, trên nhiều địa bàn khảo sát đa dạng sẽ cho thấy những đặc điểm và đường nét rõ hơn và mang tính đại diện cao hơn về các GĐTL ở những địa phương, vùng miền khác nhau cùng những chiều cạnh phong phú hơn của nhóm GDTL này ở Việt Nam hiện nay.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
- F. Houtart và L. Geneviève (2001) Xã hội học về một xã ở Việt Nam: Tham gia xã hội, các mô hình văn hóa, gia đình, tôn giáo ở xã Hải Vân. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội. 2001.
-
F. Houtart (2004). Những suy nghĩ về sự quá độ hướng về một nền kinh tế thị trường. Tạp chí Xã hội học, No. 4/2004.
- Lê Kim Sa (2014). Tầng lớp trung lưu ở Việt nam: Quan điểm tiếp cận, thực tiễn phát triển và các kiến nghị chính sách. Báo cáo Tổng hợp Đề tài cấp bộ của Trung tâm phân tích và Dự báo, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
- Số liệu điều tra theo Bảng hỏi 108 hộ gia đình và phỏng vấn sâu cán bộ, người dân xã Hải Vân, tháng 1/2017 của đề tài “Gia đình trung lưu ở Việt Nam với các quá trình phát triển kinh tế – xã hội – văn hóa”
- Số liệu thống kê do UBND xã Hải Vân cung cấp.